Sáng kiến kinh nghiệm Đẩy mạnh hoạt động dạy học thông qua việc dự giờ thăm lớp

1. Lý do chọn đề tài:       

Nghị quyết TW2 ngày 14 tháng 09 năm 2005, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định một số vấn đề chủ yếu: “Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, là điều kiện để phát triển nguồn lực con người yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng cường kinh tế nhanh và bền vững…”. Để đáp ứng nhu cầu đổi mới của xã hội, để thực hiện nghị quyết TW2, ngành giáo dục đặt ra cho hệ thống giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng, việc nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục là một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho những nhà quản lý cũng như mỗi người giáo viên. Chất lượng giảng dạy và giáo dục của nhà trường, phụ thuộc vào giờ lên lớp của giáo viên, do vậy các nhà quản lý phải kiểm tra thường xuyên, kịp thời và đánh giá chính xác giờ lên lớp của giáo viên.

doc 16 trang Hải Anh 07/07/2023 4860
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đẩy mạnh hoạt động dạy học thông qua việc dự giờ thăm lớp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_manh_hoat_dong_day_hoc_thong_qua_v.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Đẩy mạnh hoạt động dạy học thông qua việc dự giờ thăm lớp

  1. Xuất phát từ thực trạng trên khiến tôi quyết định chọn đề tài:" Đẩy mạnh hoạt động dạy học thông qua việc dự giờ thăm lớp". Với mục đích tìm ra biện pháp khắc phục những hiện trạng nêu trên và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường Tiểu học. B. NỘI DUNG: @. Cơ sở lý luận của kiểm tra – đánh giá giờ dạy trên lớp của giáo viên: I. Quan niệm về kiểm tra, đánh giá: 1. Kiểm tra: Là quá trình xem xét thực tế nhằm đo nhiệm vụ giữa mục tiêu đề ra với trình độ đạt chuẩn trên thực tế của đối tượng nhằm thu thập thông tin (ngược). Tạo nên quá trình điều chỉnh của hệ quản lý và tự điều chỉnh của hệ bị quản lý. 2. Đánh giá: - Đánh giá là đưa ra nhận định tổng hợp về các dự kiện đo lường được thông qua các kỳ kiểm tra lượng giá trong quá trình và khi kết thúc bằng cách đối chiếu, so sánh với những tiêu chuẩn đã được xác định rõ ràng trước đó trong các mục tiêu. - Đánh giá là quá trình thu thập thông tin, xử lý thông tin để lượng định tình hình và kết quả công việc giảng dạy của giáo viên người đánh giá có kế hoạch quyết định và hành động có hiệu quả. 3. Đánh giá giờ dạy trên lớp đối với giáo viên: Là một quá trình tiến hành có hệ thống nhằm xác định mục đích thành công của giáo viên trong giờ dạy về nội dung giờ dạy, về phương pháp mà giáo viên đã áp dụng về phong thái của giáo viên trong giờ dạy học, nó bao gồm sự miêu tả định tính và định lượng kết quả đạt được thông qua những nhận xét, so sánh với mục tiêu giờ lên lớp dựa vào các chuẩn đánh giá. II. Tác dụng của việc kiểm tra đánh giá đối với hoạt động chuyên môn trong nhà trường: 2
  2. Đánh giá việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng có thể đánh giá được tinh thần nhiệt tình sáng tạo của giáo viên trong công tác ta cần xem xét để thấy được bài dạy có thể sử dụng được những đồ dùng nào giáo viên có thể tự làm, góp ý cho giáo viên giúp họ có thể sáng tạo, tìm tòi để có nhiều đồ dùng phù hợp, tiện lợi phục vụ cho bài dạy đạt hiệu quả. c. Đánh giá việc giảng bài trên lớp của giáo viên : - CBQL cần chỉ ra những ưu điểm để GV phát huy và những hạn chế mà GV cần khắc phục. - CBQL cần tạo tâm lí cho GV để cùng GV trao đổi những kinh nghiệm trong giảng dạy, tháo gỡ những khó khăn tạo điều kiện tốt nhất để GV phát huy hết năng lực chuyên môn. @. Biện pháp đẩy mạnh hoạt động dạy học thông qua việc dự giờ thăm lớp: I. Xây dựng kế hoạch tổ chức dự giờ kiểm tra đánh giá: - Kế hoạch dự giờ được xây dựng dưới nhiều hình thức: Báo trước, không báo trước, dự giờ song song, dự giờ cả buổi, dự giờ có mời đồng nghiệp cùng dự, dự giờ có sử dụng công nghệ thông tin - Để xây dựng kế hoạch dự giờ hiệu quả thiết thực người CBQL cần bám sát phân phối chương trình chẳng hạn dự khối 1 vào thời gian nào? nhằm tháo gỡ vấn đề gì? VD: dự vào tiết? chuyển từ dạng bài dạy âm sang dạy vần. Hay khối 2 dự môn Toán bài? chuyển từ dạng bài cộng trừ không nhớ sang dạng bài cộng trừ có nhớ - Để xây dựng kế hoạch dự giờ cần dựa trên việc phân loại tay nghề nghiệp vụ sư phạm GV: đối với GV khá giỏi của trường thì dự tiết nào mà CBQL cho là khó dạy để xem GV tháo gỡ chỗ vướng đó như thế nào? Đối với GV yếu trong trường cần dự những tiết chuyển từ dạng bài này sang dạng bài khác xem GV đó có nắm chắc tiến trình lên lớp hay không? Hay dự tiết dạy lí thuyết, tiết dạy thực hành xem 4
  3. sửa đổi? vấn đề sử dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh? + Phong thái sư phạm: ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi cần chuẩn mực trong sáng gần gũi với học sinh sao cho dễ hiểu, trên phương diện tôn trọng người học, phát huy khả năng vốn sống và vốn kiến thức của HS vào bài dạy + Chất lượng học sinh: Thông qua việc tiếp thu bài giảng, việc thực hành kiến thức trên lớp, việc đóng góp xây dựng bài của HS để CBQL nắm bắt chất lượng HS. Hoặc có thể sau dự giờ CBQL có thể kiểm tra kết quả học tập của HS bằng một bài kiểm tra chất lượng + Ngoài các mặt trên cần chú trọng các yếu tố như: khoa học thực tiễn gắn liền với cuộc sống, đào tạo toàn diện, bám sát mục đích yêu cầu của bài học, điều kiện phương tiện thiết bị dạy học và các tình huống xảy ra trong tiết học có tính tích cực hoặc ngược lại. Bước 3: Nhận xét đánh giá tiết dạy: - Cho GV nêu lại tiến trình tiết dạy, ý tưởng tự đánh giá việc làm được và những vấn đề chưa làm được của mình. - CBQL tham gia từng khâu đoạn trong tiến trình tiết dạy, chỉ ra cho GV thấy được mặt mạnh, yếu, để GV có cái nhin tổng quát về tiết dạy. Bước 4: Nêu kết quả cuối cùng, ghi biên bản. CBQL cho GV kí nhận những việc đạt được trong tiết dạy và những hạn chế của tiết dạy, làm cơ sở cho việc kiếm tra đánh giá sự tiến bộ khả năng cập nhật đổi mới phương pháp trong những lần dự sau. Bước 5: Rút kinh nghiệm cho bản thân người CBQL sau dự giờ học được ở GV sự sáng tạo nào? Từ đó bổ sung kiến thức phương pháp cho mình làm hành trang trong việc kiểm tra đánh giá đồng nghiệp trong những lần kiểm tra. *Lưu ý: Để bước 3 nhận xét tư vấn GV tiếp thu hiệu quả nhất CBQL cần tôn trọng tư duy nhà giáo để GV được nói ra ý tưởng của mình, CBQL chỉ nhẹ nhàng 6
  4. đánh giá tay nghề GV còn được công khai trên Hội đồng sư phạm nhà trường nên mỗi GV đều ý thức được danh dự Nhà giáo mà có hướng phấn đấu ở những giờ dạy tiếp theo. * Như vậy qua việc kiểm tra đánh giá đã góp phần thúc đẩy sự phấn đấu nỗ lực của từng GV b. Dự giờ đột xuất: là việc dự giờ không báo trước chỉ nằm trong mục tiêu cần đạt của CBQL. Mỗi GV lên lớp phải chấp hành việc dự giờ đột xuất bất kì mà CBQL đề xuất. Ưu điểm là: - Kích thích hoạt động dạy của mỗi GV - Đối với GV: Luôn luôn chuẩn bị tâm thế đón kiểm tra dự giờ đột xuất bất kì tiết nào từ đó GV luôn có ý thức chuẩn bị tốt bài trước khi lên lớp. - Đối với CBQL: Tuy là dự giờ đột xuất song nó phải nằm trong chủ định của CBQL. Dự ai? Dự khi nào? Dự tiết nào? Dự để nhằm mục đích gì? Muốn làm được điều đó: CBQL phải căn cứ vào phân phối chương trình để dự giờ. Có thể là mở đầu cho một dạng bài nào đó. VD: Khối 1 dạng bài chuyển từ âm sang vần- CBQL dự để nắm bắt các bước lên lớp để tham gia uốn nắn, định hướng các hoạt động sư phạm của GV. Hay khối 2 môn Toán chuyển từ dạng bài cộng trừ không nhớ sang cộng trừ có nhớ CBQL cần dự giờ để tham gia và nắm bắt quy trình lên lớp cách truyền thụ kién thức của GV. Hay một tiết nào đó cho là khó dạy trong việc tổ chức lớp học hoặc tháo gỡ về thời gian, phương pháp để tham gia ý kiến cùng GV thúc đẩy hoạt động dạy trong nhà trường. * Thông qua việc dự giờ đột xuất góp phần đẩy mạnh hoạt động dạy học trong nhà trường là: mỗi GV trước khi lên lớp luôn luôn phải chuẩn bị bài, chuẩn bị tâm thế dự giờ, chuẩn bị đồ dùng dạy học c. Dự giờ hội giảng: Là hoạt động sư phạm mang tính tập thể GV trong trường. Ưu điểm là: 8
  5. hình và kênh chữ tốt hơn. - Đối với GV tiết dạy nhẹ nhàng mà hiệu quả hơn. - Đối với CBQL đã mở ra cho GV một sân làm việc tri thức mà cập nhật được nhiều thông tin. * Để đẩy mạnh hoạt động chuyên môn trong nhà trường có ứng dụng công nghệ thông tin tôi làm từng bước như sau: Bước 1: Khuyến khích GV dạy học và soạn giảng có ứng dụng công nghệ thông tin, có thể lúc đầu là những tiết dạy trong hội giảng được sự hỗ trợ của những CBGV có tay nghề vi tính tốt. Bước 2: Nhân điển hình bằng việc tuyên dương những tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin, tuyên dương những GV đi đầu trong việc tiếp cận công nghệ thông tin. Bước 3: Trong hội giảng việc đánh giá của CBQL có cộng điểm ưu tiên. g. Dự giờ song song: là việc dự cùng một tiết nhưng dự hai GV khác nhau. * Ưu điểm: - So sánh được cùng một nội dung kiến thức: mỗi GV vận dụng phương pháp dạy học, cách thức tổ chức khác nhau nên hiệu quả giờ dạy khác nhau. - Tìm được những sáng tạo của mỗi GV để tháo gỡ kiến thức nội dung bài giảng. * Thông qua việc dự giờ: CBQL cho người dạy tiết 1 cùng dự để rút kinh nghiệm cho việc dạy của mình và bổ sung cho đồng nghiệp. GV dạy tiết thứ nhất học được ở GV dạy tiết sau những vấn đề gì? Người dạy tiết thứ nhất bổ sung cho người dạy ở tiết dạy sau những vấn đề gì? * Thông qua việc làm đó: Mỗi GV thấy rõ nhất điểm mạnh của mình để phát huy, để tự khẳng định mình và điểm hạn chế của mình của đồng nghiệp để rút kinh nghiệm cho tiết dạy sau tốt hơn. 10
  6. Bài 2: Mảnh bìa nào dưới Bài 2: Mảnh bìa nào dưới HS được thực hành kiến đây có thể gấp được một đây có thể gấp được một thức vào thực tế, HS khắc hình lập phương? hình lập phương? sâu kiến thức được kiến thức bài cũ và so sánh được (Hình1) (Hình1) kiến thức các bài có liên quan. (Hình 2) (Hình 2) ( Hình 3) ( Hình 3) ( Hình4) ( Hình4) GV đưa mô hình lên bảng GV đưa mô hình lên bảng và yêu cầu HS dưới lớp và yêu cầu HS dưới lớp gấp trên bằng đồ dùng gấp trên bằng đồ dùng chuẩn bị của HS. chuẩn bị của HS. GV hỏi củng cố về HLP có mấy mặt? các mặt có đặc điểm gì? Bài 3: Đúng ghi Đ, sai ghi Bài 3: Đúng ghi Đ, sai ghi Hệ thống câu hỏi đã đưa S S HS vào tình huống. HS tự 12
  7. C. KẾT LUẬN: 1. Như vậy tiết dạy sau khi rút kinh nghiệm dự giờ: - Về phương pháp có nhiều đổi mới GV đã phát huy khả năng học tập của HS, tạo cho HS một phương pháp độc lập, tự chủ, có ý thức tìm tòi nhiều phương pháp giải cho một bài toán. - Về nội dung GV đã khai thác được kiến thức ở nhiều mức độ khác nhau, khắc sâu được kiến thức cơ bản, mở rộng cho HS nhiêu cách giải cho một bài toán. Hệ thống câu hỏi đã đưa HS vào tình huống có vấn đề bắt HS phải tư duy trước khi trả lời, bắt HS có cái nhìn tổng thể trước khi giải toán. - Về phong thái: GV tự tin, nhẹ nhàng gần gũi có điều kiện giúp đỡ được HS yếu mà vẫn phát huy được khả năng của HS khá giỏi. - Về kết quả học tập của HS: học sinh được làm việc nhiều hơn, học sinh có nhiều ý tưởng trình bày, tự minhg làm chủ trong các hoạt động học tập của mình, được khuyến khích trong việc tìm nhiều lời giải cho một bài toán. 2. Về GV: Sau khi được dự giờ thăm lớp GV đã chủ động nhiều trong tâm thế lên lớp, GV tự tin và vững vàng về kiến thức, nhuần nhuyễn về phương pháp. Hạn chế tâm lí ngại đón CBQL dự giờ mà thay vào đó là sự sẵn sàng trao đổi chuyên môn cùng CBQL. 3. Về CBQL: Thúc đẩy việc hoạt động chuyên môn trong nhà trường, tạo ra một phong trào thi đua dạy tốt học tốt, thúc đẩy được các hoạt động của Tổ chuyên môn, thúc đẩy được cá nhân tích cực trong hoạt động chuyên môn của nhà trường. * Bài học: 1. Nâng cao nhận thức của đội ngũ cốt cán và toàn bộ giáo viên: - Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc kiểm tra- đánh giá giờ dạy trên lớp cho tất cả giáo viên trong trường vì khi mỗi giáo viên có nhận thức tốt thì họ sẽ cố gắng trong công tác giảng dạy và đi đến sự đánh giá chính công việc của bản thân mình. Họ sẽ tự cảm thấy những phần còn hạn chế để khắc phục, những 14
  8. - Xây dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết cho việc kiểm tra- đánh giá giờ lên lớp hàng tuần, tháng, năm, công bố toàn trường và những đơn vị tổ chức trong và ngoài nhà trường có liên quan đến kế hoạch. * Kiến nghị: - CBQL cần gương mẫu trong việc thực hiện quy chế chuyên môn dự đầy đủ theo quy định và phát động mọi thành viên trong nhà trường tham gia dự giờ đủ theo quy chế. - Qua kiểm tra- đánh giá giờ dạy thì các cấp quản lý của ngành giáo dục phải có chế độ khen thưởng thích đáng để kích thích động viên họ, đồng thời phải có kế hoạch bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên có kết quả giảng dạy còn thấp giúp họ đạt yêu cầu trong giảng dạy./. Phong Tân, ngày 20 tháng 4 năm 2015 Người viết Trần Văn Trí 16