Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Tập làm văn

2. Khó khăn

 2.1. Về phía giáo viên

- Một số giáo viên dạy còn áp đặt, chỉ hướng dẫn học sinh theo yêu cầu của sách mà chưa chú ý đến việc khám phá cái hay, cái đẹp của bài văn.

- Một số giáo viên chỉ chú ý đến việc học ở lớp mà chưa chú ý đến việc  luyện tập ở nhà, chưa hướng dẫn cho các em tìm hiểu thêm sách, báo...

- Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng kiểm tra một số giáo viên cho học sinh chép bài mẫu. 

- Những tiết trả bài viết giáo viên trả bài cho các em và nêu một số lỗi, chữa bài qua loa, chưa quan tâm nhiều đến sửa câu, cách dùng từ trong câu, dùng từ sai của học sinh. 

doc 14 trang Hải Anh 07/07/2023 5400
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Tập làm văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_h.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Tập làm văn

  1. - Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với các em nên tìm hiểu và nắm bắt được những khó khăn, sai sót của các em khi làm bài văn miêu tả. - Đa số các em có khả năng tưởng tượng phong phú, biết nhìn nhận những hình ảnh vào tri thức và nhớ có hệ thống, các em đã biết sử dụng dùng từ đặt câu, viết như thế nào cho đầy đủ ý, các em lĩnh hội nhanh và biết sử dụng các biện pháp tu từ để đưa vào bài tập làm văn của mình. - Hơn nữa các em còn được học 9 buổi/ tuần nên kiến thức được nắm kĩ hơn. - Các em càng có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các bài văn, đọan văn điển hình. 2. Khó khăn 2.1. Về phía giáo viên - Một số giáo viên dạy còn áp đặt, chỉ hướng dẫn học sinh theo yêu cầu của sách mà chưa chú ý đến việc khám phá cái hay, cái đẹp của bài văn. - Một số giáo viên chỉ chú ý đến việc học ở lớp mà chưa chú ý đến việc luyện tập ở nhà, chưa hướng dẫn cho các em tìm hiểu thêm sách, báo - Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng kiểm tra một số giáo viên cho học sinh chép bài mẫu. - Những tiết trả bài viết giáo viên trả bài cho các em và nêu một số lỗi, chữa bài qua loa, chưa quan tâm nhiều đến sửa câu, cách dùng từ trong câu, dùng từ sai của học sinh. 2.2. Về phía học sinh - Một số học sinh vẫn chưa có thói quen chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp, thậm chí khi cần thiết chỉ chép lại bài của bạn. - Năng lực cảm thụ văn bản cũng như những kĩ năng phân tích đề, làm bài văn còn nhiều hạn chế. Không ít học sinh tỏ ra thờ ơ, ít có nhu cầu được tự bộc lộ cảm nhận của mình qua một tiết học hay một bài làm. - Kĩ năng làm văn của các em còn hạn chế như: chưa biết quan sát, miêu tả còn chung chung chưa thể hiện được đặc điểm nổi bật của từng đối tượng mình định tả ; chưa biết sử dụng những từ gợi tả và các biện pháp nghệ thuật trong bài văn ; chưa biết thể hiện cảm xúc của mình khi miêu tả. 2
  2. sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát được, những gì đã được tham quan. Ngoài ra, trong đời sống thường ngày các em phải tiếp xúc với nhiều người khác nhau và trong từng trường hợp cụ thể ấy các em cũng sẽ giữ những “vai” khác nhau. Chính “vai”giao tiếp này buộc các em trau dồi thêm vốn sống lựa chọn chi tiết để nói, chọn ngôn từ để thể hiện. 2. Bồi dưỡng cảm thụ văn học Cảm thụ văn học phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của các em. Trước hết tôi tạo điều kiện để các em tiếp xúc với tác phẩm, tôn trọng những suy nghĩ cảm xúc thực, thơ ngây của các em và nâng chúng lên ở chất lượng cao hơn. Sau đó tôi trang bị cho các em một số kiến thức về văn học như hình ảnh, chi tiết, các đặc trưng nghệ thuật, một số biện pháp tu từ, Một trong những biện pháp có hiệu quả để bồi dưỡng cảm thụ văn học là rèn luyện cách đọc diễn cảm có sáng tạo. Nó giúp các em nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích các em khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương. Ví dụ: Rèn kĩ năng cho học sinh cách nghe để cảm thụ cái hay của bài văn “Hoàng hôn trên sông Hương” (Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1, trang 11) - Trước tiên tôi đọc bài văn thật hay. . - Cho một vài em đọc thật tốt đọc lại toàn bộ bài văn. - Tôi lần lượt cho học sinh phân tích bài văn bằng hệ thống câu hỏi để khai thác cái hay của bài. . * Tìm phần mở bài: Đoạn 1: Từ “Cuối buổi chiều, yên tĩnh này” ” ” - Câu mở bài diễn tả nhận xét gì của tác giả ? ? - Tác quan sát cảnh vật ở vị trí nào ? ? - Tác giả quan sát cảnh vật và tả vào thời điểm nào trong ngày ? ? - Từ đó tôi kết luận: Câu mở bài phải giới thiệu được vị trí quan sát, giới thiệu vị trí quan sát bằng cách thể hiện được cảm xúc người viết. Tác giả đã giới thiệu được nơi mà mình định tả vào thời điểm nào đó trong ngày. . * Tìm phần thân bài: : 4
  3. Tôi giúp các em hệ thống hoá các từ ngữ thuộc chủ đề sông nước. Chẳng hạn: lăn tăn, êm đềm, man mác, quanh co, xanh thẳm, lung linh, ầm ầm, ì ầm, rì rào, ào ào, ì oạp, oàm oạp, lao xao, thì thầm, lửng lơ, trườn lên, bò lên, cuồn cuộn, trào dâng, ào ạt, cuộn trào, điên cuồng, dữ dội, khủng khiếp, dềnh, đập nhẹ lên, Ví dụ 2: Từ thường dùng khi làm bài văn tả người: TẢ HÌNH DÁNG - Tả mái tóc: đen nhánh, đen mượt, đen mướt, nâu đen, hoa râm, muối tiêu, bạc phơ, mượt mà, mượt như tơ, óng ả, óng mượt, lơ thơ, xơ xác, cứng như rễ tre, dày dặn, - Tả vóc người: Cao, lùn, gầy gò, ốm yếu, nho nhã, tầm thước, mảnh khảnh, dong dỏng, thon thả, đẫy đà, yểu điệu, béo phệ, mập mạp, lực lưỡng, vạm vỡ, trẻ trung, cân đối, gầy guộc, mảnh mai, cường tráng, tiều tuỵ, lụ khụ, uể oải, bụ bẫm, còm nhom, thanh tú, - Tả khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh, trẻ măng, hồng hào, đen sạm, rám nắng, xanh xao, tái mét, không còn chút máu, vuông vắn, vuông chữ điền, trái xoan, hốc hác, vô tư, đần độn, thông minh sáng sủa, khôi ngô, khả ái, xấu xí, rỗ như tổ ong, tươi tỉnh, niềm nở, hớn hở, ủ rũ, cau có, bơ phờ, hung tợn, ngờ nghệch khờ khạo, lầm lì, là lạ, thơ ngây, nhăn nheo, thờ thẫn, đăm chiêu, hiền hậu, dễ thương, phúc hậu, - Tả làn da: Nhăn nheo, xanh như tàu lá, bạch tạng, trắng nõn, trắng trẻo, nõn nà, mịn màng, nứt nẻ, có nhiều vết xẹo, sần sùi, tái mét, xanh xao, xanh lét, hồng hào, đỏ thắm, đen sạm, da bánh mật, ngăm ngăm, ngăm đen, đen đủi, - Tả đôi mắt: Đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn, thâm quầng, trắng đục, đỏ ngầu, nâu đen, mù loà, lồi, tròn vo, một mí, mất ốc bươu, trao tráo, ti hí, mắt bồ câu, hai mí, linh hoạt, soi mói, láu lỉnh, sáng long lanh, trầm tư, trầm tĩnh, trầm lặng, hiền hậu, mơ màng, tinh ranh, lanh lợi, - Tả cái nhìn của đôi mắt: Đăm đắm, đắm đuối, dáo dác, trìu mến, mơ màng, chăm chú, ngơ ngác, hằn học, TẢ TÍNH TÌNH 6
  4. Ví dụ: Đề bài Tập làm văn lớp 5 trang 94 - Luyện tập thuyết trình, tranh luận: Hãy trình bày ý kiến của em nhằm thuyết phục mọi người thấy rõ sự cần thiết của cả trăng và đèn trong bài ca dao sau: Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng Đèn ra trước gió còn chăng, hỡi đèn ? Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây ? Sau khi tìm ý, sắp xếp ý theo một trình tự hợp lí để thuyết trình về vấn đề nêu ra trong đề bài, các em có thể chọn từ, tạo câu để trình bày các ý cần nói thành một đoạn văn và liên kết các đoạn thành bài thuyết trình ngắn như sau: “Đèn và trăng đều vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta. Đây là hai nhân vật cùng tỏa sáng vào ban đêm. Trăng soi sáng khắp nơi. Trăng làm cho cuộc sống thêm đẹp, thơ mộng. Nếu không có trăng, cuộc sống ra sao nhỉ ? Chúng ta sẽ không có đêm rằm trung thu, không được nhìn ngắm những vì sao lung linh trên trời Nhưng vì thế mà coi thường đèn. Trăng chỉ sáng vào một số ngày trong tháng và cũng có khi phải luồn vào mây. Còn đèn, đèn tuy nhỏ bé nhưng cũng rất có ích. Đèn soi sáng cho con người quanh năm, đèn giúp em học bài, đèn giúp mẹ làm việc Nhưng đèn không nên kiêu ngạo với trăng. Đèn không thể sáng nếu không có dầu, có điện. Đèn dầu ra trước gió sẽ có thể bị gió thổi tắt. Trong cuộc sống chúng ta, cả trăng và đèn đều rất cần thiết”. - Lắng nghe ý kiến đóng góp của bạn bè, thầy cô giáo để tự kiểm tra, đối chiếu văn bản nói của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt ; biết sửa lỗi về nội dung, hình thức diễn đạt. Tôi luôn quan tâm rèn luyện kĩ năng nói cho các em theo yêu cầu trên, như vậy vừa giúp các em nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ, phát triển tư duy, vừa tạo điều kiện cho kĩ năng viết phát triển tốt. 5.2. Rèn luyện kĩ năng viết Dựa vào yêu cầu bài tập (hay đề bài) để viết một đoạn văn (hay bài văn), các em có thời gian suy nghĩ, tìm cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, ) thuận lợi hơn làm văn nói. Tuy nhiên, các em cũng cần đạt 8
  5. III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Tuy thời gian không dài, với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu trên tôi nhận thấy chất lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn của lớp đã có sự tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đã biết cách dùng từ, đặt câu trong miêu tả, các em biết sử dụng ngữ nghĩa chính xác. Các bài tập làm văn của các em không còn mang tính liệt kê, kể lể nữa. Sau đây là bảng thực nghiệm chất lượng bài làm văn của lớp 5.1 thời điểm cuối học kì I như sau: Bảng 2: Kết quả thực nghiệm: Số em viết đạt Số em viết đạt Số em viết Số em viết đạt Tổng Lớp điểm dưới 5 điểm 5 - 6 đạt điểm 7 - 8 điểm 9 - 10 số HS SL % SL % SL % SL % 5.1 34 0 0 11 32,35 18 52,94 05 14,7 Do vậy, từ nay đến cuối năm học tôi luôn cố gắng phát huy, tìm tòi và vận dụng phương pháp tốt nhất để học sinh lớp tôi đạt chất lượng tốt hơn. IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Muốn các em học tốt phân môn Tập làm văn tôi cần rèn luyện cho các em một số kĩ năng cơ bản sau: - Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn nhằm rèn luyện mình để có nhận thức đúng, tình cảm đẹp đối với văn học. - Tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học qua hoạt động, quan sát hằng ngày trong cuộc sống. Nhưng quan sát như thế nào mới có kết quả tốt, phục vụ cho việc tích luỹ “Vốn sống”. - Nắm vững kiến thức cơ bản đã học trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Có hiểu biết về ngữ âm, chữ viết Tiếng Việt ; nắm vững kiến thức ngữ pháp tiếng việt, các em sẽ không chỉ nói – viết tốt mà còn có thể cảm nhận được nét đẹp của nội dung qua những hình thức diễn đạt sinh động, sáng tạo của tác giả. - Rèn luyện kĩ năng cảm thụ văn học là một trong những nhiệm vụ cần thiết đối với học sinh lớp 5. Có năng lực cảm thụ văn học tốt, các em sẽ cảm nhận được nhiều nét đẹp của văn thơ, được phong phú thêm về tâm hồn, nói – viết tiếng việt thêm trong sáng, sinh động. 10
  6. MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ trang 1 B. PHẦN NỘI DUNG trang 1 I. THỰC TRẠNG trang 1 1. Thuận lợi trang 1 2. Khó khăn trang 2 3. Số liệu thống kê trang 2 II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN trang 3 1. Bồi dưỡng vốn sống trang 3 2. Bồi dưỡng cảm thụ văn học trang 4 3. Cung cấp thêm một số vốn từ ngữ theo chủ đề trang 5 4. Khai thác sự sáng tạo, suy nghĩ trên cơ sở quan sát bằng hệ thống câu hỏi mở trang 7 5. Rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng viết trang 7 III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC trang 9 IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM trang 10 C. KẾT LUẬN trang 10 12